Tuổi tác người phụ nữ
Đối với việc mang thai, sinh nở thì dù theo hình thức tự nhiên hay thụ tinh trong ống nghiệm thì đều phụ thuộc rất lớn vào tuổi tác và sức khỏe của người mẹ.
Bố mẹ tuổi càng trẻ, khả năng IVF thành công càng cao. Bởi số lượng và chất lượng trứng đạt tiêu chuẩn để có thể cùng với tinh trùng tạo thành phôi tốt theo sinh lý phụ nữ sẽ giảm theo thời gian, đặc biệt khi phụ nữ bước qua tuổi 35. Chất lượng trứng càng tốt, số phôi tạo thành càng nhiều, dẫn đến cơ hội chuyển phôi của mẹ được nhiều lần hơn trong 1 chu kỳ kích thích trứng.
Thời điểm lý tưởng nhất để sinh nở là trong khoảng 20-30 tuổi, sau đó, khả năng sinh sản sẽ thấp dần. Đối với những người phụ nữ lớn tuổi thì cơ hội thụ thai thành công sẽ giảm đi, và tỷ lệ phải hủy bỏ phôi cũng cao hơn khi thực hiện IVF.
Khả năng làm tổ (có thai) của một phôi khi cấy vào tử cung là khoảng 15-20% với phôi ngày 2; khoảng 20-25% với phôi ngày 3; 30-35% nếu là phôi ngày 5. Phụ nữ tuổi càng cao thì tỷ lệ thành công giảm dần.
Điều trị càng sớm cơ hội sinh con càng cao
Đối với phương pháp thụ tinh ống nghiệm hay bất kỳ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nào cũng vậy, thời gian vô sinh hiếm muộn càng lâu thì việc điều trị càng trở nên khó khăn hơn.
Trước khi tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm, tất cả các cặp vợ chồng đều được kiểm tra tình trạng vô sinh hiếm muộn. Với những ca bị vô sinh hiếm muộn nhiều năm, nguyên nhân gây vô sinh phức tạp (tinh trùng của người chồng quá ít, quá yếu…; hay người vợ có tiền sử kích thích buồng trứng quá mức, lạc nội mạc tử cung… khả năng làm IVF có tỷ lệ thành công sẽ không cao bằng những người mới phát hiện ra nguyên nhân vô sinh hiếm muộn. Vì vậy, theo khuyến cáo, nếu sau một năm không dùng các biện pháp tránh thai mà vẫn chưa có con, các cặp vợ chồng cần đi khám sớm nhằm tìm ra nguyên nhân và tình trạng đang gặp để kịp thời điều trị.
Nguyên nhân vô sinh
Ngoài chất lượng tinh trùng, tỷ lệ thụ tinh ống nghiệm thành công còn phụ thuộc khá nhiều vào các vấn đề liên quan đến vô sinh nữ như: rối loạn chức năng buồng trứng, dự trữ buồng trứng thấp, sự rụng trứng…
Cụ thể, tỷ lệ thụ thai thành công trong IVF là 33.9% với trường hợp vô sinh do rối loạn phóng noãn và 14.3% với vô sinh do giảm dự trữ buồng trứng. Ngoài ra, các yếu tố như nồng độ thuốc kích trứng cũng có thể tác động tới tỷ lệ mang thai.
Trong khi một số nguyên nhân vô sinh nam (phân mảnh ADN tinh trùng, AZF…) ảnh hưởng đến tỷ lệ thành công của IVF, các yếu tố như dị tật tử cung, u xơ tử cung cũng làm giảm khả năng thành công của IVF.
Thành công của IVF phụ thuộc cả vào sự rụng trứng. Rối loạn chức năng của buồng trứng có thể làm giảm cơ hội thành công của IVF. Ngoài ra cần một lượng lớn thuốc kích thích rụng trứng trong khi chuẩn bị IVF cũng là một yếu tố có thể làm giảm tỷ lệ thành công với IVF.
Số trứng thu được sau khi kích trứng
Ngay từ đầu chu kỳ kinh nguyệt khi đi khám vô sinh hiếm muộn bác sỹ đã tiến hành siêu âm cho mẹ để xác định số nang noãn có trong buồng trứng, để tiên lượng khả năng kích trứng có thành công cao hay không. Trong suốt quá trình kích thích trứng, người mẹ sẽ biết số lượng trứng mình có trong chu kỳ này là bao nhiêu. Số lượng trứng này đối với mỗi phụ nữ đều khác nhau, tùy vào cơ địa từng người.
Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào việc cơ thể của người mẹ có đáp ứng được với thuốc kích trứng hay không. Nhiều trường hợp đã phải hoãn chu kỳ điều trị do bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém với thuốc. Tỷ lệ này chiếm khoảng 10%, nếu tuổi của người phụ nữ càng lớn thì tỷ lệ này càng cao. Ngược lại cũng có nhiều trường hợp người phụ nữ bị quá kích buồng trứng phải ngưng điều trị, xảy ra khi người phụ nữ đáp ứng với thuốc làm tăng quá mức số nang noãn của buồng trứng. Tỷ lệ quá kích buồng trứng nặng khoảng 1%.
Sau khi kích trứng thì bác sỹ sẽ tiến hành chọc trứng, nguy cơ trong lúc chọc hút trứng cũng có thể ảnh hưởng đến số lượng trứng thu được, vì cũng có thể gây vỡ trứng hoặc xảy ra các tai biến như chảy máu trong. Một người sau khi thực hiện hết các quá trình trên có thể thu được từ một vài quả trứng, cho đến vài chục quả. Tuy nhiên trong số này chỉ có những trứng trưởng thành mới có thể tiến hành tạo phôi, còn những loại trứng vỡ, trứng non ở các giai đoạn trưởng thành khác nhau cũng không thể dùng để thụ tinh được.
Số phôi thu được sau khi tạo phôi
Trong số trứng thu được từ quá trình chọc trứng lại chỉ có khoảng 60-70% trứng trưởng thành sẽ tạo thành phôi. Do nó còn phụ thuộc vào chất lượng tinh trùng và khả năng kết hợp giữa tinh trùng và trứng trong điều kiện nhân tạo. Khoảng 95% noãn thụ tinh với tinh trùng sau đó sẽ phát triển thành phôi ngày 2, 70-80% noãn thụ tinh sẽ phát triển đến phôi ngày 3, khoảng 50% noãn thụ tinh sẽ phát triển đến phôi ngày 5. Nghĩa là nếu nuôi cấy càng kéo dài, số phôi còn lại càng thấp. Ngoài ra, phôi cũng được phân loại thành phôi loại 1, phôi loại 2 và phôi loại 3 tùy theo chất lượng phôi. Tuy nhiên, dù phôi loại hai, loại ba cũng vẫn có thể phát triển thành công khi cấy vào trong tử cung, chứ không chỉ phôi loại 1, nên cũng không cần quá lo lắng khi chỉ có phôi loại 2 hoặc loại 3. Trong những trường hợp cần phải sinh thiết để sàng lọc dị tật hoặc kiểm tra ADN của phôi thai (PGTest) để chọn lọc phôi tốt (không lệch bội, không mang gen bệnh…) để chuyển vào tử cung người mẹ.
Kỹ thuật chuyển phôi.
Thụ tinh trong ống nghiệm là một kỹ thuật gồm nhiều bước phức tạp, đòi hỏi bác sĩ thực hiện là người không chỉ có chuyên môn mà còn phải có kinh nghiệm. Đặc biệt với những ca mà nguyên nhân vô sinh hiếm muộn phức tạp, bác sĩ sẽ phải quyết định có cần thực hiện các kỹ thuật liên quan chuyên sâu như tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (ICSI), nuôi trứng non rồi cho thụ tinh… hay không. Kỹ thuật được tiến hành chính xác không chỉ quyết định tỷ lệ thành công của ca thụ tinh trong ống nghiệm, giúp giảm chi phí, thời gian tiến hành mà còn giúp tránh được những rủi ro về sức khỏe cho người mẹ.
Thời điểm chuyển phôi
Cho đến nay các bác sĩ nhận ra nhiều người có phôi tốt, niêm mạc tử cung đẹp nhưng vẫn nhiều lần IVF thất bại có thể là do thời điểm chuyển phôi chưa chính xác. Trên thế giới và ngay tại Việt Nam nhiều bác sĩ đã sử dụng xét nghiệm Genratest để xác định thời gian tối ưu cho chuyển phôi. Xét nghiệm này được thực hiện bằng cách sinh thiết mẫu tử cung Sử dụng NGS để phân tích sự biểu hiện của toàn bộ hệ gen liên quan trạng thái tiếp nhận tử cung. Dựa trên biểu hiện kiểu gen, chia màng trong dạ con thành 3 loại: Trước tiếp nhận, tiếp nhận và sau tiếp nhận. Theo các nghiên cứu, thời điểm chuyển phôi này của 1 người không thay đổi trong khoảng 36 tháng.
Số thai phát triển được sau khi chuyển phôi vào tử cung
Đây là một trong những giai đoạn “sống còn” của thụ tinh trong ống nghiệm. Sau khi tạo thành phôi, bác sỹ sẽ tùy từng trường hợp như chất lượng phôi như thế nào, niêm mạc của người mẹ ra sao mà quyết định chuyển phôi tươi hay chuyển phôi trữ (đông lạnh). Trong quá trình gửi đông lạnh và rã đông, cũng có một số những phôi thai sẽ bị hỏng, nên thường chỉ trữ lạnh trong những trường hợp có nhiều phôi. Cũng tùy từng người mà bác sỹ sẽ quyết định chuyển 1 phôi, 2 phôi, 3 phôi hay 4 phôi trong 1 lần. Sau khi chuyển phôi vào bên trong tử cung của người mẹ cũng chưa chắc chắn được, mà sẽ có thể xảy ra các trường hợp như: Sảy thai, thai ngoài tử cung, thai lưu, thai ngừng phát triển, thai ngoài tử cung… Ngược lại, nếu sau khi chuyển thai vẫn phát triển tốt thì bố mẹ vẫn có thể lưu trữ những phôi còn lại trong điều kiện đông lạnh và có thể đợi đến nhiều năm sau khi em bé đầu tiên cứng cáp bố mẹ có thể chuyển phôi lần 2 hoặc lần 3 để sinh thêm con mà không cần phải làm lại quy trình này từ đầu.
Chế độ dinh dưỡng, vận động cho vợ chồng
Chế độ dinh dưỡng đóng vai trò rất quan trọng ảnh hưởng tới tỷ lệ thành công của quá trình thụ tinh ống nghiệm. Các cặp vợ chồng nên đảm bảo đủ chất và tập luyện rèn luyện sức khỏe.
Chuẩn bị chuyển phôi
Các cặp đôi nên chuẩn bị sức khỏe trước khi làm IVF khoảng vài tháng để có thể lực và tâm lý tốt nhất. Về dinh dưỡng, cả 2 vợ chồng cần bổ sung đầy đủ tất cả các nhóm chất dinh dưỡng. Với người chồng, nên ăn thực phẩm chứa nhiều sắt kẽm như thịt bò, sò huyết và tăng khẩu phần ăn khi gần đến ngày lấy tinh trùng.
Trong thời gian lên kế hoạch chuẩn bị tiến hành IVF, cả 2 nên tham gia các môn thể thao yêu thích và phù hợp để nâng cao thể lực thể chất, tinh thần. Nên tìm cách để hai vợ chồng có tâm lý thoải mái trước khi bước vào quá trình thực hiện IVF.
Sau khi chuyển phôi
Các cặp đôi cần lưu ý nhiều hơn đến vấn đề dinh dưỡng, vận động, nghỉ ngơi và các vấn đề trong sinh hoạt khác. Khẩu phần ăn mỗi ngày nên bổ sung đạm từ thịt gà, thịt bò, thịt heo, hàu, tôm, cua, sữa; ăn nhiều rau, chất xơ, uống nước hoa quả.
Tránh ăn chua cay và các chất kích thích như tiêu, ớt, tránh ăn quá mặn, quá lạnh hoặc quá nóng; uống cà phê, bia, rượu, hút thuốc lá.
Bên cạnh đó, người mẹ cần cung cấp vitamin B9 – đây được xem là vitamin rất cần thiết cho sự hình thành nhân tế bào. Thức ăn chứa nhiều vitamin B9 như: rau chân vịt, giá đỗ, các loại ngũ cốc, thịt gà và một số trái cây tươi như cam, bưởi. Đồng thời, người mẹ cũng cần bổ sung omega 3 như: dầu cá, dầu thực vật, nhằm giúp trí não trẻ phát triển toàn diện từ trong bụng mẹ.
BS. Phạm Hữu Cường